(Ảnh từ internet)
“Nhập vong”, “áp vong”, “ngoại
cảm”, “tìm hài cốt”… là những từ ngữ đã được sử dụng từ lâu, nhưng
lại thấy xuất hiện nhiều trên báo chí và các phương tiện truyền
thông gần đây. Cùng với các từ đó, người ta truyền nhau những thông
tin cùng chiều hoặc trái ngược nhau về “nhà ngoại cảm” Phan Thị Bích
Hằng, về việc công an khám xét nơi ở và bắt tạm giam “Cậu Thủy”…
Xã hội người Thái Nghệ An
ghi nhận có ba đối tượng liên quan hoặc nhiều hoặc ít đến chuyện
“nhập vong”- đứng đầu là thầy mo, thứ hai là những người “đột nhiên
có khả năng ngoại cảm” và thứ ba là những người phụ nữ yếu vía.
Các thầy mo ở các bản của
người Thái Nghệ An không biết gì về các từ “ngoại cảm”, “nhập vong”…
nhưng công việc họ đã làm từ đời này qua đời khác cũng có tính
chất na ná như vậy. Tuy nhiên, trong bản trong mường không ai là không biết
câu thành ngữ đã truyền tụng từ rất xưa trong xã hội người Thái:
“Hướn mỏ bo mí phả, ná mỏ bo mí hộ” (Nhà thầy mo không có vách,
ruộng của thầy mo không có rào)- Câu này có ý nêu cho ai nấy biết
rằng công việc của thầy mo, của những người làm nghề mo là một cái
“nghiệp”. Theo đó, hễ đã theo “nghiệp mo” thì không dễ gì mà dứt bỏ,
hễ có người đến gọi là phải đi làm “mo”, họ không chủ động được
thời gian, nên tấm phên thưng nhà, cái hàng rào ngăn trâu bò phá
ruộng… họ cũng không làm cho xong được. Từ phong trào “chống mê tín
dị đoan” đâu như hồi 1958, nhiều thầy mo bị cấm hành nghề, bị thu hết
đồ nghề, các nhà thờ nhỏ của họ bị phá đi. Từ đấy, họ hầu như
không dám làm nghề mo, bởi chỉ cần động đến là bị quy cho hành động
truyền bá mê tín dị đoan. Hiện nay, nhiều nơi có tìm hiểu và phục
dựng lại lễ hội “xang khan” và gọi đó là lễ hội của bản mường-
thực ra đó là lễ hội do các thầy mo đứng ra tổ chức. Để “nâng cao
tay nghề” theo một dạng “cấp sắc” đặc biệt, thì cứ độ vài năm hoặc
lâu nhất là chục năm, thầy mo phải tổ chức “xang khan” một lần. Thời
đó, có nhiều thầy mo không dám tổ chức, bị ảnh hưởng đến sức khỏe,
ốm lên ốm xuống hoặc có vị không qua được vận hạn của đời mình,
đành nhắm mắt xuôi tay về với các bậc tiền bối của nghề mo…
Trong cuộc sống và sinh hoạt
tâm linh tín ngưỡng của người Thái, hiện tượng “nhập vong” xảy đến
với thầy mo trong các việc “làm mo” là một hiện tượng đương nhiên và
cần phải có. Nếu không có sự “nhập vong” trong việc “làm mo” thì
thầy mo đó sẽ không được tin tưởng, thầy mo sẽ bị coi là không thiêng.
Qua việc “nhập vong”, thầy mo mới có thể đại diện cho một đấng siêu
nhiên bí ẩn nào đó để phán bảo việc lành dữ cho gia chủ. Để có
thể cho vong hồn “nhập” và phán bảo, thầy mo phải biện các lễ vật
chỉn chu theo bài bản cần thiết của công việc đòi hỏi, sau đó ngồi
hát những lời cúng theo các điệu “hắp” và “xến”. Trong quá trình
hát bài “xến” của mình, thầy mo sẽ vời gọi các “vong” (hoặc là có
cả âm binh) giúp đỡ mọi sự trong suốt hành trình trên cõi “ảo” để
tìm vía, bắt vía, chuộc vía, dẫn vía v.v… giúp cho gia chủ. Khi gọi
được vong về nhập, cả thân mình thầy mo sẽ run rẩy như “lên đồng”,
rồi tiếp đó hoặc là sẽ cười lên một tràng khanh khách, hoặc vỗ tay
đen đét, hoặc làm một vài hành động kỳ quặc khác. Người Thái hay
gọi trạng thái đó là “ma nhập” (phí ma tư), lúc đó đôi mắt của thầy
mo đầy vẻ bí hiểm, khác lạ hẳn đi và tránh nhìn thẳng vào mắt của
người đối thoại; giọng phán bảo của thhầy mo cũng có thể khác hẳn
chứ không như giọng nói ngày thường… và còn những biểu hiện kỳ quặc
khác… Để hiểu những điều phán bảo của thầy mo, người nghe cần phải
biết được những từ ngữ cổ xưa mà đến nay chẳng còn mấy khi được
dùng, hoặc người nghe có thể hỏi lại một vài chỗ chưa rõ, hoặc
cũng có thể đối thoại với “vong”. Tùy trường hợp mà sự “nhập vong”
có thể diễn ra trong vài phút hoặc đôi khi là cả tiếng đồng hồ. Sau
khi đã “phán bảo” những điều được cho là cần thiết thì “vong thăng”,
tức là “vong” sẽ rời khỏi bản thể thầy mo, trả lại trạng thái tinh
thần bình thường cho thầy mo để thầy tiếp tục làm việc. Thường thì
thầy mo chẳng mấy khi nhớ lại được những gì “vong” đã phán, nên thầy
thường hỏi lại nội dung cuộc đối thoại và giải nghĩa thêm những chỗ
nào còn chưa rõ…
Hiện tượng “nhập vong” của
thầy mo tuy chứa đầy bí ẩn nhưng lại trở nên quen thuộc trong đời
sống của người Thái. Trong các bài cúng bái, khấn khứa của người
Thái, thường có những đoạn nêu rất rõ ràng các “cam kết” giữa người
sống với thần linh hoặc kể cả với gia tiên, ma rừng, ma suối… Thoạt
biết đến những điều cầu mong khấn khứa, người ngoài hay nghĩ đến
những từ như là “nhảm nhí” hoặc “dị đoan”- tuy nhiên tìm hiểu để
biết thêm về “sự cam kết” thì sẽ thấy không phải như thế. Nghĩa là,
người Thái không nhắm mắt đưa chân để mê muội tin theo một hiện tượng
nào đó, kể cả “nhập vong”, mà cam kết của họ (với thần linh) phải
được thực hiện ở một mức độ nào đó thì mới có thể chiếm được
lòng tin của họ. Trong công việc của thầy mo, sự “nhập vong” được xác
tín thông qua một loạt các hành vi và thủ thuật khác của thầy mo mà
nếu không có “vong giúp” thì người ta cho rằng thầy mo khó có thể
làm được. Ấy là các thủ thuật đại loại như dựng thẳng thanh kiếm
cắm mũi nhọn vào bát gạo, dùng hạt gạo ném lên quả trứng gà để
bói, hoặc thầy mo bất ngờ nhảy lên rất cao, hoặc nuốt ngọn lửa, nhai
hòn than đỏ v.v… Tuy nhiên, có một sự xác tín cổ xưa, rất đỗi bình
thường mà hay được sử dụng rộng rãi và luôn được coi là hiệu
nghiệm, kể cả với những lời lẽ cao siêu khó hiểu của thầy mo hay là
với nhưng lời cầu mong dân dã của một ông thầy cúng bình thường: đó
là gieo quẻ. “Quẻ bói” ở đây có thể là hai đồng xu, nhưng thường thì
“quẻ” được lấy từ hai mảnh tre hoặc nứa khác lóng với nhau. Nếu sau
khi khấn khứa, gieo được quẻ sấp ngửa thì coi như là ổn việc. Người
bình thường thì thế, nhưng thầy mo nếu trong một việc khá trọng đại
mà muốn khỏi hổ cái danh tiếng cao tay, thì thầy mo phải gieo được ba
quẻ sấp ngửa liên tiếp. Đọc đến đây, bạn đọc có thể nghĩ đến sự
ngẫu nhiên trong cách gieo quẻ, điều đó cũng chẳng sao. Tuy nhiên,
người viết bài này từng chứng kiến một trường hợp cách đây trên hai
chục năm, lúc đó trong việc mo đang tiến hành, hình như thầy mo làm
sai một công đoạn gì đó nên trái ý thần linh. Kết quả là hôm đó
thầy mo gieo liên tiếp 9 quẻ mà
không được một quẻ sấp ngửa nào, thầy mo hãi quá toát hết mồ hôi ra
và đành bỏ cuộc…
Đối tượng thứ hai liên quan
đến chuyện “nhập vong” trong xã hội người Thái Nghệ An như đã nói,
đó là các “nhà ngoại cảm”. Những “nhà” này khi xuất hiện có phần
nào tương ứng với một số nhà “ngoại cảm” khác ở vùng đồng bằng,
trong đó có cả trường hợp Phan Thị Bích Hằng. Thường là sau một
trận ốm thập tử nhất sinh, hay sau một sự biến khá nghiêm trọng về
sức khỏe, thì khả năng của những “nhà” này xuất hiện, được truyền
tai nhau từ người này đến người khác và họ bắt tay vào việc “ngoại
cảm”. Trong xã hội người Thái, những công việc “ngoại cảm” này tuyệt
đối không liên quan đến hài cốt (vì người Thái kiêng, không có tục
bốc mộ), mà chỉ xoay quanh mấy chuyện đoán điềm lành dữ, tìm lại
vật rơi, tìm con trâu đi lạc trong rừng, v.v… Thường kết quả của cách
“ngoại cảm” này dao động trên mức trung bình nên cũng được coi là
tích cực. Ghi nhận thực tế có trường hợp tìm lại được con trâu đi
lạc, hay bỗng dưng nhận lại được món đồ quý mà chủ nhân ngỡ đã bay
biến từ lâu rồi. Tuy nhiên, có một vài nhà “ngoại cảm” muốn độc
quyền nâng giá “dịch vụ” hay do có sự “cạnh tranh không lành mạnh”
dẫn tới nói xấu nhau, rốt cuộc bản thân họ “mất thiêng” và chẳng
còn mấy ai tìm đến để nhờ vả. Tệ hơn nữa, có “nhà ngoại cảm” còn
“hành nghề” quá nhiệt tình, vượt cả ra ngoài phạm vi giới hạn của
mình bằng cách “ngoại cảm” ra cả thủ phạm của các vụ ăn cắp vặt,
gây mất đoàn kết giữa người này với người kia… Dĩ nhiên là các
“nhà” này nhanh chóng bị bà con xếp vào hạng “dại không ai bằng”,
bởi tự dưng lại gây thù chuốc oán lung tung…
Đối tượng cuối cùng dính
dáng đến sự “nhập vong” trong xã hội người Thái là những phụ nữ
được cho là “yếu vía”. Những phụ nữ này thường ở độ tuổi khoảng
từ 16 đến trên 40. Trong hầu hết các đám tang của người Thái, những
đối tượng này khi đến tham gia vào thời điểm đưa quan tài ra khỏi nhà
(hoặc kể cả trước đó) thì thường khóc lóc quá thảm thiết và/ hoặc
tự dưng bị ngất đi. Lúc đó những phụ nữ xung quanh thường phải nhanh
chóng đỡ lấy họ và chăm sóc như đối với một người có bệnh tim bị
ngất đột ngột. Rất có thể thể trạng của những phụ nữ này cũng
liên quan đến bệnh tim ít nhiều. Tuy nhiên, sau khi được những người
chăm sóc gọi ơi ới vào tai cho tỉnh lại, những phụ nữ này sẽ kể
lại câu chuyện họ gặp được hồn người chết, cùng đi “đưa tiễn” người
chết đến rú mồ (rừng nghĩa địa). Thường là khi đi đến “làng bản”
của người chết, họ bao giờ cũng phải lội qua một con suối ngăn cách
giữa “mường người” và “mường ma”. Đến đó, họ cũng nhìn thấy, gặp
lại những người đã chết từ rất lâu… Hoặc họ giã giúp cho người này
nắm thóc, khâu giúp cho người kia cái áo v.v… Sau, do nghe thấy có
nhiều tiếng gọi ở bên “mường người” gọi hồn mình về nên họ tạm
biệt người của “mường ma” và quay trở lại… Và thế là họ tỉnh lại.
Những người “tái xổng” (chết tiễn đưa) này khi tỉnh dậy, trăm người
như một, họ đều kể lại về những tình tiết liên quan đến “mường
người” và “mường ma” như thế. Điều kỳ lạ hơn nữa là trong trạng thái
ngất xỉu như thế, họ vẫn nhịp nhàng giơ tay thể hiện các động tác
nhấc gánh, giã gạo, khâu vá… mà họ đang làm ở “mường ma” tại thời
điểm đó y như trong đời thực.
Qua các tình tiết và những
đối tượng nêu trên đây, dễ thấy rằng hiện tượng “nhập vong” trong đời
sống, sinh hoạt hàng ngày của người Thái chẳng phải là chuyện hiếm
hoi gì. Và, cho dù không giải thích được bản chất của hiện tượng
đó, người Thái đã có một ý niệm khá đúng đắn qua câu “quạt hướn
ọc nhắc nhưa, nhượng xưa ọc việc phỉ” (bói ra ma, quét nhà ra rác).
Tự thân sự việc là bí hiểm nhưng sự bí hiểm đó không thể thay thế
cho nỗ lực của con người. Từ sự “cam kết” rành mạch với thần linh
mà người Thái không cho phép cái gọi là thế lực siêu nhiên chi phối
quá sâu vào đời sống của họ; thậm chí có lúc người Thái còn cả
gan “bắt nạt” lại thần linh… Chính vì nhận thức được sự bình đẳng
này mà người Thái luôn tìm được sự bình lặng trong tư duy, không để
bản thân và gia đình, cộng đồng của mình bị dẫn dắt một cách quá
đáng từ một sự kiện bí hiểm nào đó, cũng như không quá đam mê với
một sự ngọt ngào giả trá không phải do nỗ lực của mình tạo ra… Và
như thế, cuộc sống của người Thái xưa nay vẫn không ngừng đổi thay
cùng vạn vật!
(Sầm Văn Bình- Tạp chí "Văn hóa Nghệ An" số ra ngày 10/ 11/ 2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét