Ngày xưa, khi trên mặt đất
chưa có trầu, cau thì trầu đang ở đâu đó nơi bà Pa Nha Thế Đá; cau ở tận ngoài
trời, nơi bà Pa Nha Nạc; vôi trắng đang còn ở núi đá Phá Chí; thuốc ăn trầu thì
ở với ông vua Thái. Cây cau thì do Chàng Rồng hoá thành; vôi bột thì do chàng
Rái Cá hoá nên; dây trầu là do Nàng Uốn Tuôn hoá thành.
Bà già Nhạp Nhạ hoá nên vỏ cây, dùng để ăn kèm với trầu cho đỏ. Thế rồi, Trầu về ở Mường Trời; Cau đến ở ngay trước nhà Then (Ông Trời); ở trong vườn cây hòm (một loại cây làm thuốc nhuộm vải) của Nàng Ám; vườn cây chàm của Nàng Ảy; vườn hoa trước nhà Then.
Bà già Nhạp Nhạ hoá nên vỏ cây, dùng để ăn kèm với trầu cho đỏ. Thế rồi, Trầu về ở Mường Trời; Cau đến ở ngay trước nhà Then (Ông Trời); ở trong vườn cây hòm (một loại cây làm thuốc nhuộm vải) của Nàng Ám; vườn cây chàm của Nàng Ảy; vườn hoa trước nhà Then.
Nhưng giống trầu, giống cau là
thứ lá thơm, quả ngon, nên trâu bò Mường Trời thường ăn mất ngọn; voi Mường
Trời thường vặt trụi lá non. Trầu, Cau muốn thở, bị nghẹt thở, đau nhức khắp
toàn thân.
Một hôm, Then vào vườn thấy
thế, ngắt lá, hái quả nhai thấy ngon ngon, cay cay, thơm thơm, bèn cho mang một
ít vào nhà. Lá trầu nằm trên đĩa sứ cho Then ngắm; quả cau nằm trong đĩa vàng
cho Then xem. Lúc đó, trầu, cau mới kêu than với ông:
- "Ông ơi, Then ơi!
Trước đây chúng con ở trong vườn cây
Vườn hòm Nàng Ám
Vườn chàm Nàng Ảy
Vườn hoa trước nhà Then
Trâu bò thường ăn mất đọt
Voi thường về vặt trụi lá non
Muốn thở, nhưng nghẹt thở
Đau nhức khắp toàn thân
Mỗi ngày không ra được một lá
Một hồi không mọc nổi một chồi
Một ngày không lên được một ngọn
Trưa buổi, không trổ buồng quả bạc
Không ra nổi buồng quả vàng
Không thành quả quý cho con người
Không thành quả tươi cho người ăn đỏ môi
Thấy cây dưới trần, muốn sóng đôi
Thấy cây dưới cát, muốn leo, quấn"…
Ông Then hiểu ý muốn của trầu,
cau, liền nói:
- Các con muốn xuống trần
gian, nhưng ở đâu cho tốt?
Trầu, cau liền nói:
- Chúng con xuống, xin thay mặt người lo việc bản
Xuống trần gian, xin thay mặt của lo việc mường
Người ở đâu, chúng con ở đó
Chúng con không dám kén chọn đất ở…
Nghe thế, Then liền nhẹ nhàng
nói:
- Thế thì gọi chim Khẹt Kèo mường Chợ mình to, ngực nở
Mỏ cạp lấy cây cau
Tai kẹp lấy dây trầu
Bay lượn giữa trời, xuống tận trần gian…
Từ đó, dây trầu mới rơi xuống
bản Mường Mẹt; gốc cau nhỏ xuống bản Mường Mai ở.
Một buổi trưa, có hai mẹ con
côi, goá bụa đang hì hục đào khoai mài ở trong rừng chợt nhìn thấy cây gì quả
vàng đỏ trên cao, liền nối sào chọc lấy. Đập quả vào tảng đá. Đập quả vào đá
vôi. Chân tay không bị đứt mà thấy máu đỏ như hoa có pháng… liền đem về nhà báo với chủ Nha Mường.
Ông Chủ Đất Chủ Mường cho hai
mẹ con ăn cơm, uống rượu rồi bảo nhai trầu, cau cho ông xem. Ông thấy đỏ, lại
nghe mùi thơm cay, bèn nhai thử. Không ngờ ông thấy ấm bụng, mặt bừng bừng
nóng, nghe máu chảy rần rật trong người. Ông liền bảo vào rừng lấy giống mang
về. Ông cho vãi giống ra vườn, ra đất và bảo chăm sóc kỹ. Trầu bén, hai ba ngày
lá mọc như vảy cá trôi; sáu bảy ngày lá như vảy cá vả; bốn năm ngày lá nở xoè
ra, ngọn buông xuống xùm xoà mặt đất…
Ông Chủ Đất Chủ Mường mừng
quá, truyền cho mọi người trồng cau xuống đất đen; trồng trầu xuống đất mùn.
Cau nghe ấm, cau mọc. Trầu nghe mát, trầu lên. Leo lên tận cây chò. Leo lên hết
cành khô…
Trần gian có trầu, cau từ đó.
Và cũng từ đó, mọi người có tục ăn trầu.
Người kể: Lô Vĩnh, Bản Yên Luốm, Châu Quang, Quỳ
Hợp, Nghệ An.
(Trích trong "Múa hát mừng nhà mới"- Quán Vi Miên chủ biên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét