TỤC XIN CON- SINH NỞ THEO TÂM LINH NGƯỜI THÁI
Đối với người dân tộc Thái, sự ra đời của trẻ con không chỉ là biểu hiện
hạnh phúc của lứa đôi, sự kiện trọng đại của mỗi gia đình, mà còn là niềm vui của
cả dòng họ. Khi bé trai được sinh ra, sẽ đáp ứng nhu cầu về việc nối dòng nối dõi;
nếu là bé gái, sẽ có người tiếp nối việc canh cửi, chăn màn, bếp núc, gìn giữ
ngọn lửa trong gia đình. Trong tập tục sinh đẻ với những nét văn hóa đặc thù
mang bản sắc của người Thái nhóm Tay Mương ở Nghệ An, quá trình xin vía con cho
đến sinh nở (và các quá trình tiếp nối về sau), đã luôn được lưu truyền và thể
hiện trong các nghi lễ quan trọng trong đời người. Thầy mo thực hiện nội dung này
trong 2 nghi lễ quan trọng: lễ làm vía đại (làm vía cho người già), và trong phần
nội dung "thu của về trời" ở đám tang ma người cao tuổi.
Đầu tiên, thầy mo nhắc đến thời
gian đôi vợ chồng trẻ vừa mới kết duyên. Việc kết duyên này được cho là nằm
trong phúc phận của cả hai người do ông trời xếp đặt:
"Bố (Trời) mới kéo vườn Nen về ghép/ dẫn vườn Nen về gần/ đưa vườn
chuối mường trời về gộp thành duyên vợ chồng/ Mới có đôi như là đôi đũa/ Có
chăn có màn để vào nằm ngủ/ Mới có vợ chồng chung vía, thân tròn chung nệm với
nhau".
Rồi tháng ngày trôi đi, đôi vợ chồng trẻ quấn quýt bên nhau đã lâu ngày
nhưng chưa có con: "Vẫn còn ở rỗi như cá bọp ở vũng sâu/ Ở không như cá Vả
dưới phai/ Ở lành như trâu choai trong chuồng". Họ e sợ rằng "Không
có chó có mèo sợ chuột gặm mất cửi/ Không có con nhỏ thì không có người nối dõi
trong nhà". Vậy nên vía người mẹ trẻ đã lặn lội lên Mường Then, đến gặp Trời
để xin vía con: "Thấy tủi mới gập khuỷu tay lên nhà Mẹ (nữ thần trên trời)
van xin/ Ngửa tay lên nhà Then xin con nhỏ".
Bà nữ thần thấy thương tình nên ban vía con cho. Lúc đó, ông Trời mới
cho gọi các vị Then (thiên thần) đến để làm công việc đúc ra vóc dáng cho linh
hồn đứa trẻ. Các vị thiên thần này gồm có: Pa Căm (bà thần quản lý nguyên liệu),
Chẳng Bằng (vị thần cân đong, tính toán), còn cả các vị Then khác nữa sẽ được gọi
sau. Lúc này, ông Trời (Then Bôn) mới đo đạc vóc dáng và định ra các cơ quan
thân thể cho vía: "Bố
Bôn đến, Bố đo chân/ Bố đo cho thành chân/ Bố làm ra cẳng chân/ Để có cẳng chân
đi ruộng/ Rồi Bố làm đùi/ Để có đùi đi nương/ Bố làm ra gan/ Có gan thành hai
chồi/ Bố làm ra phổi/ Có phổi thành hai lá/ Làm ra ngón chân ngón tay xinh xắn/
Ngón út và ngón cái hồng hồng/Mọi cái đều làm ra cho đủ/ Mọi thứ làm ra cho khắp/
Không cho thiếu thứ gì ở trong thân thể".
Xong xuôi đâu đấy, ông Trời gọi tiếp
ông Then Bảu (thần đúc khuôn) và Lam Phạ (thợ đúc) đem khuôn đến: "Cái khuôn
đẹp Bố Bôn đem đặt/ Cái bễ rèn Bố đem đến kề/ Phía dưới có sắt đến lót/ Phía
trên lấy khuôn đồng đến đặt/ Mới có ông Lam Phạ đến thụt bễ phì phò/ Ai khéo thụt
thì đến thụt bễ/ Ai khéo rèn đến rèn chan chát". Các vật liệu như vàng, bạc,
đồng đều đã được nung nóng chảy và sẽ được rót vào trong khuôn, và phải rất cẩn
thận, chính xác: "Then
mới cúi mặt vào lều thợ đổ khuôn đúc người/ Không đổ lệch ra sợ con mắt toét/ Không
đổ trào sợ con bị mắt loà/ Không đổ xiên đổ xẹo sợ con chân khoèo/ Đổ khéo mới
thành thân hình đẹp/ Đổ con gái thì Then đổ ngửa/ Đổ con trai thì Then đổ sấp"...
Việc đúc hình hài thân thể cho linh
hồn đứa trẻ đã xong, nay đến việc của ông Then Bắc (Then xác định cuộc đời dài
ngắn). Ông Then Bắc sẽ hỏi cặn kẽ xem linh hồn sẽ chấp nhận những quãng đời như
thế nào sau khi thành thai nhi:
- Hỏi xem đứa trẻ có (chấp nhận) bị
chết khi còn là thai nhi hay không: "Mày hoá sau bố sau mẹ được mấy hạn thì về/ Được một tuổi thì mày nảy nở/
Nảy nở rồi mày lại hoá/ Vừa vào trong bụng mẹ thì về (tức là quay trở về Trời)?".
Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi tiếp xem đứa trẻ có bị chết do ngã cầu thang, rơi sàn hay không:
"Biết nhận chết rơi sàn sau sàn trước/ Mày sẽ về không/ Được ba tuổi biết
đi, mày rơi thang/ Mày sẽ về không?". Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi tiếp xem đứa trẻ có bi chết do rủi ro khi đi bẫy cá, bẫy thú trong
rừng không: "Được bốn tuổi biết đi dựng đăng, bị đá kẹp tay/ Mày về không/
Kỳ năm tuổi biết cầm đăng cầm đó đi đặt, ma núi xuống bắt/ Kỳ sáu tuổi biết cẩm
nỏ, ma rừng về lấy/ Mày về không?". Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi xem có bị chết đuối do rơi khỏi thuyền bè hoặc tắm sông tắm suối:
"Bảy tuổi chết với thuyền, xác ngâm dưới nước/ Mày về không?". Đáp:
không nhận, không về!
- Hỏi xem có bị chết do tai nạn từ trâu bò, hổ báo, rắn rết không:
"Chết vì bò sừng vằn, trâu sừng mập/ Kỳ tám tuổi, mày chết với mồm hổ gầm,
cằm hổ vồ/ Kỳ chín tuổi chết với rồng nổi vảy, rắn cuộn đuôi/ Mày về không?".
Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi xem có bị chết do nhiễm khuẩn, trúng độc, ngộ độc không: "Kỳ
mười tuổi mày chết do con dòi cắn da/ Cả tổ con mò gà vào gặm xương/ Mày về
không?". Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi xem có bị chết do ăn lá ngón không: "Kỳ mười hai tuổi chết
vàng như lá rau úa/ Chết gấu áo ướt nước dãi/ Chết vì ăn lá ngón đang tốt bời bời/
Mày về không?". Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi xem có bị chết do rơi vực sâu, vách đá không: "Kỳ mười ba chết
do rơi lèn đá nhám/ Kỳ mười bốn tuổi chết do rơi vách núi đá cao/ Mày về
không?". Đáp: không nhận, không về!
- Hỏi xem có bị chết do gươm đao, bom đạn không: "Kỳ mười sáu chết
khăn nhúng máu đỏ/ Chết xác tan theo gió bỏ oan thân thể/ Mày sẽ về không?".
Đáp: không nhận, không về! Vân vân...
Cuối cùng, vía mới nói, mới thưa lại với ông Then Bắc: "Đã có công
hoá thành người về mường trũng mắt ngang/ Hoá người xuống mường giữa mắt xếch/ Hoá
xuống sau bố sau mẹ xin được ở lâu dài/ Đến kỳ ngã, xin ngã với vải vóc/ Đến giờ
chết xin chết với nệm chăn/ Ngã xuống dưới con đẻ còn được ôm/ Ngã lên trên con
trai còn được đỡ".
Ông Then Bắc mới đưa sổ nhà trời ra, ghi chép quãng đời người, tháng năm
hưởng thọ dưới trần gian của vía vào để lưu giữ. Tiếp đó, trời ban cho vía các
loại giống má, công cụ làm ăn, trâu bò, của cải... để mang xuống trần. Vía đứa
bé xuống trần rồi hóa thân vào lòng mẹ, lúc đấy mẹ mới mang thai: "Vía mới
cúi mặt ở bên khuất/ Nhắm mắt ẩn vào lòng mẹ/ Khắc có đốm bằng đốm hạt vừng/ Khắc
có mắt như chồi mắt mía/ Khắc có con bé nhỏ xuống để chăm giường vía". Vía
của người mẹ nay đã có thai trong bụng, quay bước về trần gian, nhưng ông Then
Bắc còn dặn dò thêm: "Hãy xuống theo đường người già, đường tổ tiên thuở
xưa/ Xuống theo đường ông bà nội ngoại thuở trước/ Xuống đường đấy mới già/ Đi
đường đấy mới ở thọ dài lâu".
Sau những tháng ngày mang thai thì
người mẹ chuyển dạ sinh con một cách an toàn, nhẹ nhõm: "Sinh buổi chiều không
ai thấy/ Sinh buổi trưa không ai biết". Bà đỡ đến đỡ đẻ, lau rửa và quấn tã cẩn thận, rồi đặt đứa bé vào chiếc
mẹt. Một bà cô hay bà bác trong nhà đến nâng tấm mẹt, làm động tác nâng lên hạ
xuống ba lần như sảy gạo rồi nói to: "Là con của ma thì hãy
mang đi/ Là con của trời thì cho trời mang về/ Kẻo uổng cơm người mường trũng mớm/
Kẻo uổng muối người mường bằng nuôi". Sau khi nói như thế mà thấy đứa bé vẫn
khỏe mạnh thì đích thị là "con của người", người ta mới mớm cơm cho đứa
bé ăn bữa đầu tiên.
Một đứa trẻ đã được sinh ra và hòa
nhập với gia đình, cộng đồng. Đứa trẻ đó ăn uống, khóc cười, lớn lên, trưởng
thành, lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái rồi tiếp tục già đi… Cho đến khi ông
Then Bắc điểm sổ nhà trời, thấy đã đến kỳ hạn nên gọi người đó phải quay về trời,
như đã giao ước "Đến kỳ
ngã, xin ngã với vải vóc/ Đến giờ chết xin chết với nệm chăn/ Ngã xuống dưới
con đẻ còn được ôm/ Ngã lên trên con trai còn được đỡ"...
./.
Sầm Văn Bình, Yên Luốm, Châu Quang, Quỳ Hợp, Nghệ An.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét